Chỉ trong niềm tin vào Chúa, người ta
mới tìm được niềm vui và ơn giải thoát thực sự…
Bà Jo Scaggs, giáo sĩ thuộc
một giáo phái Tin lành, được mời đến dự lễ Giáng sinh được tổ chức ngoài trời
tại Grace Camp, một trung tâm điều trị bệnh cùi ở Nigeria. Đó là lần đầu tiên
bà thấy được một số rất đông người cùi. Nhìn đâu cũng thấy người cùi, rất nhiều
người bị bệnh cùi gặm nhấm và hủy hoại thân thể, nhưng khuôn mặt ai cũng bày tỏ
niềm vui, mắt họ sáng lên khi hát thánh ca.
Đến phần công bố Lời Chúa,
một người cùi không còn ngón tay nào lên đọc Sách Thánh. Ông phải lật các trang
sách bằng một cái que buộc vào cổ tay. Sau bài giảng, vị mục sư mời mọi người
chia sẻ về các ân phúc Chúa ban cho mình. Người không còn ngón tay đứng lên nói
rằng: “Tôi muốn cảm tạ Chúa vì Ngài đã cho tôi bị cùi”.
Trước sự ngạc nhiên của bà
Jo Scaggs, anh giải thích thêm: “Nếu tôi không bị cùi, có thể tôi đã không bao
giờ biết Chúa Giêsu, không bao giờ cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho
tôi sâu xa đến thế. Còn thực tế là bây giờ tôi đang bị bệnh cùi, có thể tôi sẽ
không bao giờ được chữa lành, nhưng tôi lại cảm nghiệm được tình yêu của Chúa
luôn đổ tràn trên tôi qua biết bao người đang săn sóc cho tôi…”
Bước vào cuộc đời, ai cũng
phải đối diện với nhiều đau khổ từ thân xác đến tâm hồn. Đau khổ dường như
không buông tha cho ai, cả người tin vào Chúa: “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới
bao giờ? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ? Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo
lắng và lòng con ủ rũ đêm ngày? Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi” (Tv 12,2-3)?
Nhưng chỉ trong niềm tin
vào Chúa, người ta mới tìm được niềm vui và ơn giải thoát thực sự, “Vì Đức Chúa
phán thế này: Reo vui lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân! Nào
loan tin, ca ngợi và công bố: “Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn sót lại của
Ít-ra-en!” Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng
cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả
cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo” (Gr 31,7-8).
Tin Mừng Đấng Cứu Thế đem
đến cho nhân loại chỉ đơn giản là rao giảng tình yêu muôn đời Thiên Chúa đã
dành cho họ: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho
ngươi lòng xót thương” (Gr 31,3). Tình yêu đó nối kết nhân loại với Thiên Chúa
trong mối tình thân mật của một người cha dành cho con mình: “Ta sẽ an ủi và
dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng
không còn vấp ngã. Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với Ta,
Ép-ra-im chính là con trưởng” (Gr 31,9).
Vâng, Ngôi Lời đã làm
người, sống giữa nhân loại, để “chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng
qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. (…) Vị Thượng Tế của chúng ta
không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã
chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế,
ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót
thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4,14-16).
Tin Mừng cho nhân loại là
được mạnh dạn đến gần Chúa, vì chính Người đã gọi, đã đến với sự cùng cực của
mỗi người: “Người ta gọi anh mù và bảo: “ Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh
đấy” (Mc 10,49).
Vất áo choàng lại, đứng
phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu là dấu chỉ của một niềm tin mạnh mẽ. Niềm tin của
anh đã cứu anh, anh nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.
Đó là niềm tin đem ơn cứu
độ đến cho nhân loại hôm nay, niềm tin đó làm cho mỗi người nhìn thấy và phân
định được điều thực sự có giá trị trong dòng đời để vất bỏ ngay, vất bỏ dứt
khoát và mạnh mẽ những gì thế gian coi trọng để đi theo Đức Kitô trên con đường
Người đi.
Dọc miền sông Rhine, một
trong những con sông dài và quan trọng nhất Âu châu, truyện xưa kể lại chuyện
một thanh niên đói lử, quần áo mong manh, cực nhọc, suốt ngày làm việc trên
những con đường lổn nhổn, gồ ghề. Đêm đó, mắt anh nhìn thấy cánh cửa sáng ngời
của toà lâu đài gần đó, tai anh lắng nghe âm thanh lễ hội với những dòng nhạc
từ đó phát ra như cảnh thiên đàng đối với cuộc đời lao khổ của anh.
Anh bỏ nhà ra đi từ khi còn
trẻ, và từ nhiều năm đã không còn nghe biết gì về nhà của mình nên không biết
rằng lâu đài lộng lẫy đó là của cha anh mà anh là người thừa kế.
Anh đánh liều đến hỏi xin
cho được trú qua đêm. Ở cổng, anh gặp lão giúp việc. Lão nhận ra anh ngay và
dẫn anh vào buổi liên hoan. Tại đó, anh được mặc áo người thừa kế với một di
sản lớn lao. Cuộc đời anh thay đổi, bóng tối khép lại sau lưng!
Còn lớn lao hơn thế là gia
sản quí báu và hạnh phúc vĩnh cửu của tôi. Không có niềm tin, tôi không thấy gì
cả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét