Trên một đoàn tàu, có cô nhân viên soát vé xinh đẹp. Cô đang làm nhiệm vụ, bỗng dừng lại trước một người đàn ông lớn tuổi có khuôn mặt hốc hác, dáng dấp gầy gò như một kẻ làm thuê. Cô nói cộc lốc : "Soát vé ?" Người đàn ông lục trong người từ trên áo xuống quần, rốt cuộc cũng tìm thấy tấm vé, ông vẫn giữ trong tay không muốn chìa ra. Cô soát vé liếc nhìn xong rồi trách móc : "Đây là vé trẻ em !" Người đàn ông e thẹn, nhưng vẫn nhỏ nhẹ đáp :
- Vé trẻ em không phải ngang vé người tàn tật sao ? Vẫn 1/2 giá mà !
Cô soát vé nhìn người đàn ông một lúc rồi hỏi :
- Anh là người tàn tật à ?
- Đúng vậy.
- Vậy anh cho tôi xem giấy chứng nhận tàn tật.
Người đàn ông tỏ ra căng thẳng :
- Khi mua vé, cô bán vé cũng yêu cầu tôi đưa giấy chứng nhận tàn tật, nhưng tôi không có nên đành mua vé trẻ em.
- Không có giấy chứng nhận sao anh là người tàn tật được ?
Ông im lặng vén quần lên và nói :
- Chân tôi chỉ còn một nửa, tôi không có tờ khai gia đình của địa phương, họ không cấp sổ chứng nhận cho tôi. Hơn nữa, tôi làm việc cho tư nhân ở công trường, khi tôi bị nạn thì người chủ chạy mất, tôi cũng không có tiền đến bệnh viện giám định.
Trưởng tàu lúc đó đi qua và hỏi sự việc thì người đàn ông cũng trình bày như lúc đầu. Trưởng tàu lại hỏi :
- Giấy chứng nhận của anh đâu ?
- Tôi không có giấy chứng nhận, nhưng ông hãy xem chân tôi đây.
Vừa nói ông vừa vén quần lên. Trưởng tàu thậm chí không thèm nhìn và nói :
- Chỉ có giấy chứng nhận tàn tật mới hợp lệ, chúng tôi chỉ xem giấy chứng nhận chứ không xem người.
Người đàn ông lại trình bày :
- Do bị tai nạn khi làm ở công trường, tiền không có đến nỗi vé đi xe cũng người khác giúp, mong ông chiếu cố giúp tôi.
Trưởng tàu cương quyết không chịu và buộc ông ta phải lên toa đầu xe lửa xúc than để trừ vé, theo đề nghị của cô soát vé.
Một ông lão đứng phắt dậy nhìn chằm chằm vào Trưởng tàu và hỏi :
- Ông có phải đàn ông không ?
- Ồ trông tôi thế này mà không phải đàn ông à ?
- Vậy nếu đàn ông thì hãy đưa giấy chứng nhận cho tôi xem ?
Tất cả hành khách đều cười to lên. Ông lão nói tiếp :
- Tôi muốn xem giấy chứng thực như ông hỏi người đàn ông kia, chứ không xem người.
Lúc này cô soát vé lên tiếng :
- Vâỵ tôi không phải đàn ông, có gì hãy nói với tôi nè ?
Ông lão nhìn cô một lúc rồi nói :
- Cô có phải là người không ?
Cô soát vé mặt đỏ bừng lên trả lời :
- Ông nói chuyện cẩn thận nhé, tôi không là người thì là gì ?
- Tôi nghĩ cô không phải là người, nếu là người thì cô hãy đưa cho tôi xem giấy chứng nhận làm người đi ?
Hành khách lại phá ra cười, nhưng chỉ có người đàn ông tàn tật kia thì không, ông nhìn ra bên ngoài với đôi mắt ngấn lệ.
Cuộc sống vội vã ngày nay đã khiến con người tự ép mình vào khuôn khổ những nguyên tắc của công việc, nhưng lại quên đi nguyên tắc của tình người. Tình yêu thương giữa người với người thì chẳng cần nguyên tắc nào cả. Chỉ có người tàn tật kia không cười vì ông ta cảm thấy những người làm việc trên ga tàu thiếu tấm lòng bao dung cho những hoàn cảnh khuyết tật, họ đã chịu thiệt thòi mà đáng ra phải được trân trọng. ( Theo PETRUS ).
CÂU CHUYỆN 3 :
Vào một buổi chiều mùa thu dịu nhẹ, dưới bóng cây ô-liu già, Platon ngồi giữa những học trò của mình, đôi mắt ông vẫn trầm ngâm như đang nhìn thấy điều gì đó xa xăm. Một chàng trai trẻ lòng đầy khát khao và tham vọng, tiến đến gần và hỏi :
- Thưa thầy, con muốn trở thành người mạnh mẽ nhất, làm sao để con có thể chiến thắng tất cả ?
Platon khẽ mỉm cười, đôi mắt hiền từ nhưng sắc bén. Ông nhìn thẳng vào cậu học trò, rồi nhẹ nhàng hỏi lại :
- Con muốn chiến thắng tất cả, nhưng con đã bao giờ nghỉ đến việc chiến thắng chính mình chưa ?
Chàng trai sững người lại, ngỡ ngàng :
- Chiến thắng chính mình ? Điều đó quan trọng đến thế sao, thưa thầy ?
Platon gật đầu, giọng ông chậm rãi nhưng đầy sức nặng :
- Cuộc chiến bên ngoài có thể mang lại vinh quang, nhưng đó chỉ là phù du. Con người mạnh mẽ thật sự không phải là kẻ chiến thắng người khác, mà là người kiểm soát được chính mình - những sợ hãi, ham muốn, và cả sự yếu đuối bên trong. Chiến thắng bản thân, đó mới là chiến thắng vĩ đại nhất.
Những lời nói ấy như một ngọn lửa âm ỉ, nhẹ nhàng nhưng bùng cháy trong lòng chàng trai. Cậu nhận ra rằng, chiến thắng bên ngoài có thể đến rồi đi, nhưng chiến thắng chính mình sẽ tồn tại mãi mãi. Cậu không còn tìm kiếm quyền lực hay vinh quang nữa, mà bắt đầu hành trình đối mặt với chính con người thật của mình.
Từ giây phút đó, cuộc đời cậu thay đổi. Và cậu hiểu rằng, chiến thắng lớn nhất không phải là những gì người khác nhìn thấy, mà là những gì mình cảm nhận từ sâu thẳm trong lòng. ( CdL )
CÂU CHUYỆN 4 :
Dân gian kể rằng : Có một người đàn ông nọ bị quỷ hiện lên chặn đường. Qủy bắt anh ta phải làm một trong ba điều sau đây : Một là uống rượu thật say, hai là đốt nhà của mình, ba là giết chết vợ mình. Qúa hoảng sợ, người đàn ông đành chọn uống rượu thật say, vì anh ta cho đó là việc làm ít nguy hại nhất. Nào ngờ, khi say rượu, anh ta mất hết lý trí nên nổi lửa đốt nhà mình. Bà vợ can ngăn, anh ta điên tiết giết luôn vợ mình. Rốt cuộc là anh ta đã làm cả ba việc mà tên quỷ đề ra.
Câu chuyện cho thấy : Người đàn ông tưởng mình khôn ngoan, chọn con đường ít thiệt hại cho người khác nhất, nhưng kết cuộc thì anh cũng không thoát khỏi mưu ma chước quỷ. Ma quỷ hay thế lực sự dữ có rất nhiều mưu mô xảo kế. Khi cám dỗ người nào, chúng vận dụng hết mọi thủ đoạn để hạ gục người đó. ( Từ Bài giảng của một Linh mục )
CÂU CHUYỆN 5 :
Một ngày nọ, có một người đàn ông tên là Walter Salles vào thành phố làm việc, ông đi ngang một cậu bé đánh giày khoảng mười mấy tuổi ở quảng trường nhà ga xe lửa, cậu bé đánh giày hỏi ông :
- Thưa ông, ông có cần đánh giày không ạ ?
Walter cúi đầu nhìn đôi giày chưa quá bẩn của mình, ông lắc đầu từ chối. Khi Walter chuẩn bị đổi tàu thì cậu bé lúng túng, ngượng ngùng, đôi mắt ánh lên sự cầu xin :
- Thưa ông, cả ngaỳ nay cháu chưa ăn gì, xin ông có thể cho cháu vay một chút tiền được không ạ ? Cháu sẽ cố gắng đánh giày, một tuần sau cháu trả lại tiền cho ông !
Walter nhìn cậu bé trước mặt mặc bộ quần áo rách rưới, người gầy gò, thế là ông móc túi đưa cho cậu bé vài đồng xu. Cậu bé vô cùng cảm kích nói lời cảm ơn ông rồi chạy đi như bay. Lúc đó, Walter nghĩ thầm : "Lại là một thằng nhóc lừa đảo..." rồi ông đã quên bẵng đi.
Cho đến vài tuần sau, Walter đi ngang qua trạm xe lửa, đột nhiên ông nghe thấy giọng nói từ xa vọng lại :
- Thưa ông, xin ông đợi một lát !
Khi đó, ông nhìn thấy một cậu bé chạy đến đưa cho ông mấy đồng xu, lúc này Walter mới nhận ra cậu bé chính là đứa bé đánh giày đã mượn ông tiền. Cậu bé vừa thở hổn hển vừa nói :
- Cháu đã đợi ông ở đây rất lâu rồi, rốt cuộc hôm nay cũng đã trả được tiền cho ông.
Walter cầm trong tay những đồng xu còn ướt đẫm mồ hôi của cậu bé, đột nhiên ông cảm thấy đứa trẻ này thật đặc biệt. Thế nên ông có một suy nghĩ, ông thấy cậu bé này rất phù hợp với hình tượng nam chính trong kịch bản mới của mình.
Hóa ra Walter là một đạo diễn và khi đó ông đang chuẩn bị phần tiền kỳ cho bộ phim, ông đã quan sát các sinh viên của trường diễn xuất không dưới một trăm lần, nhưng đều không vừa ý.
Giờ đây, ông nhận ra cậu bé có thể là nam chính trong bộ phim của ông. Ông lấy vài đồng xu ra và nói với cậu bé rằng :
- Số tiền này là chính tôi muốn cho cháu, không cần trả lại. Ngày mai cháu hãy đến văn phòng đạo diễn ở công ty điện ảnh trong thành phố tìm tôi, tôi sẽ cho cháu một niềm vui bất ngờ lớn hơn.
Nói xong, Walter rời đi, trong lòng cảm thấy rất ấm áp và bắt đầu hy vọng vào cậu bé.
Hôm sau, bảo vệ công ty điện ảnh nói với Walter rằng trước cửa có một nhóm trẻ con mặc quần áo rách rưới đến. Walter vô cùng ngạc nhiên, ông đi ra cửa thì thấy cậu bé ngày hôm qua chạy đến, vui vẻ nói :
- Thưa ông, họ đều là những trẻ mồ côi lưu lạc không có cha mẹ giống như cháu, các bạn ấy cũng hy vọng có được niềm vui bất ngờ ạ !
Walter không thể nào ngờ được một cậu bé vô gia cư nghèo khó lại lương thiện đến thế. Sau khi quan sát, ông nhận ra quả thật là có vài đứa trẻ khác trong số đó phù hợp với vai nam chính trong kịch bản của ông hơn. Dù vậy, cuối cùng Walter đã quyết định chọn cậu bé đánh giày này và ông viết trong hợp đồng lý do mà ông chọn cậu bé là : "Sự lương thiện không cần qua sát hạch ".
Vài năm sau, Vinicius de Oliveira cũng mở một công ty điện ảnh và làm chủ tịch, anh còn viết một quyển tự truyện có tên là "Cuộc đời diễn viên của tôi".
Trên trang bìa trong của quyển sách có dòng chữ viết tay của ông Walter : "Sự lương thiện không qua sát hạch". Và đánh giá của ông về Vinicius de Oliveira : "Vì lòng lương thiện, cậu từng đem cơ hội nhường cho người khác; cũng vì sự lương thiện ấy, cơ hội trong cuộc đời chưa từng bỏ qua cậu". Đạo diễn Walter Salles.
CÂU CHUYỆN 6 :
Một người đàn ông đã có gia đình, nhưng anh lại cứ ham làm giàu và bỏ bê vợ con. Vợ anh ta cứ khuyên, anh hãy làm ít lại và dành thời gian cho gia đình đi, thế nhưng anh ta không chịu. Rồi một ngày khi anh ta đã có đủ tiền để hưởng thụ. Anh ta liền dắt gia đình đi du lịch ở xa, sau một chuyến bay dài, họ vào tới khách sạn để nghỉ ngơi. Anh ta nói với các con : Sáng mai chúng ta sẽ dậy sớm và đi chơi khắp nơi nhé. Nghe vậy, vợ con anh ta háo hức. Nhưng rồi, anh ta chết trong đêm đó.
Một câu chuyện khác cũng không kém phần bi thương : Tôi có một cô bạn làm nghề nail. Cô này cũng bỏ bê gia đình và ham kiếm tiền cho thật nhiều. Khi tôi hỏi : Sao bạn không lo tận hưởng cuộc sống ? Cô ta trả lời : Tôi cố gắng làm thêm ít năm nữa để kiếm vài trăm nghìn đô la, sau đó tha hồ hưởng thụ. Nhưng rồi, một năm sau. Cô ta bị ung thư, và bao nhiêu tiền cô dành dụm đã phải mang ra lo cho việc chữa bệnh... Rồi cô ta cũng chết.
Các bạn thân mến ! Các bạn thấy chưa, tại sao các bạn không thể sống vui từng ngày, mà cứ phải tham lam ?
Cách sống vui từng ngày có nghĩa là :
- Vui với gia đình từng ngày cùng những gì mình đang có, đừng đợi phải đầy đủ.
- Nếu bạn còn độc thân, hãy tận hưởng cuộc sống từng ngày, và đừng cứ vùi đầu vào công việc rồi quên đi bản thân.
Bởi vì, cuộc sống sẽ không như bạn nghĩ. Sẽ luôn có những điều bất ngờ mà không ai biết trước được.
Nếu chúng ta không phớt lờ, không xem thường, thì Lời Chúa rõ ràng và thẳng thắn sẽ đánh động chúng ta :
-"Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì cho dẫu ai có giàu có dư giả, thì mạng sống của người ấy cũng không nhờ của cải mà được bảo đảm đâu" ( Lc 12,15 ).
- "Đồ ngốc ! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn sẽ về tay ai ? Kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì số phận cũng như thế đó" ( Lc 12,20-21 ).
Vì vậy, đừng chủ quan mà cứ nghĩ rằng : Những ngày tháng phía trước sẽ rất huy hoàng sau khi tôi đã có tất cả.
Vua Tự Đức từng nói :
"Khôn dại cùng nhau ba tấc đất,
Giàu sang chưa chín một nồi kê !"
Sách Thánh vịnh cũng đã viết :
"Kìa thiên hạ thấy người khôn cũng chết
Đứa cơ bần dại dột cũng tiêu vong
Và của cải đều sang tay kẻ khác"( Tv 48,17-18 ).
Hãy sống trọn vẹn từng ngày bạn nhé. Vì có thể sau đêm nay, bạn sẽ không có ngày mai đâu ! Phù hoa, phù hoa... Mọi sự đều phù hoa, chỉ có thờ phượng Thiên Chúa là không phù hoa.
CÂU CHUYỆN 7 :
Người phụ nữ hỏi một ông lão :
- Ông bán số trứng này giá bao nhiêu ?
Ông lão bán trứng trả lời :
- 3000đ một quả, thưa bà.
- 6 quả 12000đ, không bán tôi mua chỗ khác.
- Cứ mua với cái giá mà bà muốn. Có thể đây là khởi đầu tốt, bởi từ sáng tới giờ tôi vẫn chưa bán được quả nào.
Người phụ nữ lấy những quả trứng và rời đi, lòng thầm đắc thắng.
Bà ta ngồi trên chiếc ô tô ưa thích của mình, tới một nhà hàng sang trọng để dùng bữa với bạn bè. Ở đó, bà và người bạn gọi bất cứ món ăn nào họ thích. Sau đó, bà ra quầy thanh toán. Hóa đơn trị giá 1.950.000đ, bà trả tới 2 triệu và còn dặn người chủ nhà hàng không cần thối lại.
Tình huống này xem ra khá quen thuộc với người chủ cửa hàng, nhưng thật quá nhẫn tâm với ông lão nghèo khổ bán trứng gà kia.
Vấn đề mấu chốt ở đây là : Tại sao chúng ta cứ phải tỏ ra quyền lực với những người nghèo khó ? Và tại sao chúng ta luôn hào phóng với những người thậm chí không cần đến sự hào phóng của chúng ta ?
Bố tôi có thói quen mua những thứ đồ nho nhỏ với giá cao từ những người nghèo khó, mặc dù ông không hề cần đến. Thỉnh thoảng ông còn trả thêm tiền cho họ. Tôi bắt đầu để tâm đến hành động này và hỏi bố tại sao lại làm như vậy ? Bố tôi bèn nói : "Đó là quỹ từ thiện được bao bọc bởi phẩm giá, con yêu ạ !"
CÂU CHUYỆN 8 :
Một ngày nọ, có anh chàng tự nhiên mở Facebook người yêu cũ ra để chúc mừng sinh nhật, chỉ lúc sau thấy cô ấy inbox hỏi anh ta có dám đi dự tiệc sinh nhật của cô ấy không. Anh chàng lưỡng lự, đi thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra, mà không đi thì hèn quá. Cuối cùng, anh ta quyết định đi dự tiệc.
Tới bữa tiệc, cô ấy kéo anh ta ra góc riêng thì thào :
- Lát anh cứ mừng sinh nhật em 5 triệu nhé. Cứ cho em oai với đám bạn, xong sau đó em lén trả anh luôn.
Anh chàng đơ ra 5 giây rồi miễn cưỡng đồng ý.
Tặng 5 triệu xong, ăn tiệc mất cả ngon vì chờ mãi chẳng thấy cô ta lén trả tiền. Cuối tiệc, cô ta liến thoắng chia tay bạn bè rồi leo taxi đi mất. Gọi điện thoại không nghe, nhắn tin không trả lời. Lát sau thì ò..í..e...thuê bao không liên lạc được. Anh ta hỏi dò mãi mới biết bây giờ cô ta trọ bên mạn Cổ Nhuế. Anh chàng phi sang nhà trọ, bà chủ dãy trọ không cho vào, gặng hỏi anh ta là ai. Bí quá, anh chàng nói đại anh ta là chồng của cô ấy. Vừa dứt lời, bà chủ trọ túm chặt anh ta đòi nợ 6 tháng tiền nhà của cô ấy. Không trả không xong với bà chủ trọ mồm mép lu loa, vì trót nhỡ dối là chồng nên phải trả. Mất mẹ nó thêm 6 triệu nữa !
Thất thểu trở về, không dám hé răng với ai nửa lời, ngậm đắng nuốt cay cả tháng trời mới nguôi ngoai được cơn đau tình ái lần đó.
CÂU CHUYỆN 9 :
Một gia đình nông dân nọ mua một cái bẫy chuột và lắp đặt trong nhà. Chuột thấy vậy nên rất lo lắng cho sự an nguy của mình. Mỗi ngày chuột lại càng thêm căng thẳng, đến mức gặp ai nó cũng nhờ giúp đỡ. Một hôm, chuột tìm đến gà mái xin một lời khuyên bổ ích, nhưng gà mái chẳng tỏ vẻ chú ý gì. Chuột lại tìm đến lợn, lợn dửng dưng. Chuột đem chuyện nói với bò, bò tức giận và đòi đuổi chuột đi chỗ khác. Chuột rất hoang mang vì lo lắng tính mạng của mình nên sức khỏe giảm sút.
Nghe được tin này thì rắn mừng thầm, vì rắn vốn thích ăn thịt chuột, rắn lên kế hoạch sẽ tấn công bất ngờ tại tận hang chuột trong nhà người nông dân, và tranh thủ xem mặt mũi cái bẫy chuột nó ra làm sao. Nửa đêm hôm đó, người vợ nghe thấy có tiếng sập bẫy, liền vội vàng chạy ra xem. Nhưng hóa ra chiếc bẫy chuột sập vào đuôi một con rắn. Rắn rất tức giận và cắn vào chân bà chủ nhà.
Người vợ sau khi bị rắn cắn sức khỏe giảm sút rất nhanh. Người chồng phải giết con gà mái để tẩm bổ cho vợ. Nhưng bệnh tình của bà cũng không khá mà ngày một nặng hơn. Rất nhiều bà con, bạn bè đến thăm. Người chồng đành phải giết lợn để thết đãi khách, xem như một lời cảm tạ. Cuối cùng, người vợ vẫn không qua khỏi và mất. Người chồng chẳng còn cách nào khác phải bán con bò để an táng cho vợ. Thế là cả bò, lợn và gà mái đều bị chết, chỉ vì cái bẫy chuột.
Một chiếc bẫy chuột dường như chẳng liên quan gì đến gà, lợn, bò, nhưng cuối cùng vẫn gây cho chúng những hậu quả nghiêm trọng. Chuyện đáng bàn là nếu gà, lợn, bò giúp đỡ chuột từ trước thì có lẽ mọi chuyện đã khác. Đó chính là cái giá phải trả cho sự vô tâm, thờ ơ của chúng. Sống trong một tập thể, chúng ta phải biết quan tâm lẫn nhau, đừng nên có tư tưởng rằng việc đó không liên quan đến mình nên kệ, bởi cuối cùng mình sẽ gặp hậu quả giống như gà, lợn, bò mà thôi.
CÂU CHUYỆN 10 :
Một ngày, anh bước xuống xe bus, buồn bã vì túi xách của anh đã bị mất cắp. Thật ra trong túi chẳng có gì nhiều, chỉ có 50 dollars và một lá thư anh viết cho mẹ : "Con đã bị mất việc rồi, tháng tới con không có tiền gởi cho mẹ nữa, và đây là 50 dollars cuối cùng của con."
Lá thư này đã nằm trong túi xách của anh một tuần rồi, nhưng anh ngần ngại chưa gởi đi vì sợ khi mẹ anh nhận được sẽ buồn lắm. 50 dollars là số tiền ít ỏi, nhưng đối với một người đang thất nghiệp như anh giữa thành phố đắt đỏ này nó lớn bằng 200 đồng của người khác. Nhưng giờ thì 50 dollars cũng không còn nữa.
Vài ngày sau anh mở hộp thư và nhận được một lá thư của mẹ anh gởi, anh rất lo sợ khi mở nó ra sẽ là thư mẹ anh hỏi tiền. Nhưng khi mở ra đọc, anh thật sự rất shock vì mẹ anh viết : "Cám ơn con ! Mẹ đã nhận được 100 dollars tiền con gởi hàng tháng cho mẹ". Anh buông lá thư xuống và thẫn thờ tự hỏi : "Ai đã gởi số tiền đó cho mẹ anh ?"
Rồi tuần lễ sau anh lại nhận được một lá thư của mẹ khi mở hộp thư. Mẹ anh viết : "Con trai của mẹ ! Mẹ nhận được lá thư này nhưng chữ quá nhỏ và khó đọc, kính của mẹ cũng bể rồi chưa có tiền mua gọng mới, mẹ không đọc được hết nên gửi nó cho con". Anh mở lá thư thứ nhì mẹ anh gởi kèm và đọc : "Này anh bạn, tôi đã gởi thêm 50 dollars cộng với 50 dollars cho mẹ anh. Suy cho cùng thì mẹ vẫn là mẹ, không thể để mẹ bị đói. Hãy cố gắng tìm việc làm cho sớm, và cố gắng lo cho mẹ anh nhé !"
Ký tên : "Kẻ móc túi".
Dù là người tốt hay người xấu thì chúng ta vẫn có mẹ như mọi người. "Mẹ", một chữ mà không ai có thể định nghĩa nổi trong một từ. Một chữ mà nói lên tất cả tình yêu thương mà người ta có thể viết lên. Mẹ không chỉ là người mang nặng đẻ đau, mẹ là tất cả của yêu thương và hy sinh vô bờ. Cho dù bạn là ai, sang hay hèn, thì mẹ của mọi người cũng đều giống như nhau...
CÂU CHUYỆN 11 :
Ông chủ khách sạn phát hiện có một kẻ lang thang ngày nào cũng ngồi bất động ở ghế đá công viên nhìn vào khách sạn của mình, khiến ông cảm thấy tò mò. Một hôm, ông chủ khách sạn không thể nhịn được nữa, thế là ông đi đến chỗ kẻ lang thang và hỏi :
- Xin lỗi anh bạn, tôi muốn hỏi anh một chút : Tại sao ngày nào anh cũng nhìn chằm chằm vào khách sạn của tôi vậy ?
- Bởi vì cái khách sạn này quá đẹp ! Mặc dù tôi chỉ có hai bàn tay trắng và ngủ trên ghế đá, nhưng mỗi ngày tôi đều nhìn nó, đến tối mơ thấy mình được ngủ trong đó.
Ông chủ khách sạn sau khi nghe xong thấy đắc ý liền nói :
- Anh bạn, đêm nay tôi sẽ cho anh được mãn nguyện, anh có thể ở miễn phí phòng tốt nhất của khách sạn trong một tháng.
Sau một tuần lễ, ông chủ khách sạn trở lại và muốn xem xem tình hình của kẻ lang thang thế nào, thì phát hiện người này rõ ràng là đã chuyển khỏi khách sạn và trở lại ghế đá công viên. Ông chủ khách sạn hỏi kẻ lang thang :
- Rốt cuộc thì đã xảy ra chuyện gì ? Chuyện gì, xin cho tôi biết ?
- Lúc trước tôi ngủ trên ghế đá, mơ được ở trong khách sạn và thấy rất thích thú; nhưng khi ngủ trong khách sạn, tôi lại thường mơ thấy mình trở lại với chiếc ghế đá. Thật là đáng sợ, cho nên tôi không thể chịu đựng được nữa !
Ông chủ khách sạn nghe xong liền phá lên cười và nói :
- Thì ra, đôi khi không có cũng khổ mà có cũng khổ !
Quả thật là, nỗi khổ con người liên quan đến "sự chấp trước" của con người, nếu như coi đồ vật nào đó là thứ nhất định phải có được, khi không có thì ao ước thèm muốn, khi có rồi lại sợ rồi muốn rời bỏ nó đi... Như thế đều là khổ.
Kinh Thánh chép rằng : "Ai có lại có thêm, ai không có thì bị dấu luôn điều họ tưởng là có". Đó là câu nói từ câu chuyện Phúc âm : Mt 25,14-30 . Ai đọc cũng sẽ nhận ra. Ngoài ý nghĩa vật chất còn mang ý nghĩa lớn về giá trị tinh thần.
CÂU CHUYỆN 12 :
Có một người đàn ông nọ qua đời vì chứng nhồi máu cơ tim. Ông phàn nàn với Thiên Chúa ( TC ) rằng :
- Thưa Ngài, Ngài gọi con về, con không chút oán hận. Nhưng tại sao trước lúc gọi, Ngài không thông báo cho con một tiếng để con chuẩn bị tâm lý và cũng để con bàn giao mọi việc với vợ và các con của con. Ngài đã khiến con trở tay không kịp.
TC trìu mến đáp :
- Ta đã từng viết cho con ba bức thư nhắc nhở con chuẩn bị ngày về mà !
Người đàn ông kinh ngạc thưa :
- Làm gì có ! Con chưa hề nhận được lá thư nào.
- Trong bức thư thứ nhất, ta để con đau lưng. Trong bức thư thứ hai, ta để cho tóc con bạc đi. Và bức thư thứ ba, ta đã khiến cho răng con rụng dần. Tất cả điều đó là tín hiệu nhắc nhở con sắp đến thời hạn quay về đấy.
TC yêu thương đã ban cho con người có lý trí để nhận biết sự hiện diện của TC. Ngài còn nhắc nhở và mời gọi ta hãy trở về với Ngài là nguồn cội, là cùng đích của mọi loài.
CÂU CHUYỆN 13 :
Cô gái đi bộ dừng lại ở ngã tư, sắp đèn xanh, cô quay sang người đứng bên cạnh mình mỉm cười, đó là một người hoàn toàn xa lạ, anh ta đã có chuyện buồn bã trong lòng, nụ cười dễ thương của cô gái bỗng làm cho lòng anh thấy vui xôn xao nhè nhẹ. Rồi anh chợt nhớ đến sự tử tế của một người bạn cũ, anh về đến nhà là ngồi gõ trên computer cho người bạn ấy một e-mail cảm ơn. Người bạn này đang ngồi ăn trưa ở một nhà hàng, nghe tín hiệu báo có mail mới nhận trên phone, anh đọc và thực sự cảm động vì nhận được thư người bạn cũ đã lâu không gặp, cuối bữa ăn, anh đã ân cần tặng một món tiền boa kha khá cho chị hầu bàn. Chị hầu bàn ngạc nhiên vì món tiền boa khá lớn so với lương công nhật của chị, chị đã quyết định đi mua một chục tấm vé số. Và chiều hôm đó có kết quả chị trúng được một lô tuy không lớn lắm. Sau khi nhận giải và đi siêu thị mua sắm thức ăn cho cả gia đình trong một tuần, dọc đường về chị bắt gặp một người ăn mày trên phố, chị giốc hết số tiền còn dư tặng cho ông ta.
Người ăn mày rất biết ơn vì đã hai ngày nay ông ta chẳng được ăn gì. Sau bữa tối ngon và no, ông trở về căn phòng nhỏ tối tăm của mình. Ông chợt thấy ở góc cầu thang một chú chó con đang rét run cầm cập, ông ôm lấy mà sưởi ấm cho nó. Về đến nhà, ông lấy nửa ổ bánh còn để dành cho nó ăn. Ngoài trời cơn dông lạnh buốt cũng vừa ập tới.
Khuya đêm ấy, trong khi mọi người đang ngủ say thì ngôi nhà bỗng nhiên bị chập mạch điện và bốc cháy, chú chó con đã bật thức dậy sủa vang cho đến khi đánh thức được tất cả mọi người trong nhà, họ đã ùa chạy ra, được cứu thoát chết trong đường tơ kẻ tóc.
Một trong những đứa bé được cứu thoát trong đêm hôm ấy, sau này trở thành bác sĩ tìm ra một loại vắc-xin chữa khỏi một căn bệnh vô cùng nguy hiểm cho loài người.
Tất cả là nhờ một nụ cười tử tế và dễ thương...
( Tg : KHUYẾT DANH, Ephata biên tập dựa trên dunglac.org ).
CÂU CHUYỆN 14 :
Có một cô gái không may bị mù. Cô quen biết một chàng trai, và hai người yêu nhau. Một ngày, cô gái nói với chàng trai :
- Khi nào em nhìn thấy được thế giới, em sẽ lấy anh.
Rồi đến một ngày kia, cô gái được phẫu thuật mắt và nhìn thấy được ánh sáng. Chàng trai hỏi :
- Bây giờ em đã thấy được cả thế giới, em sẽ lấy anh chứ ?
Cô gái ngẩn ngơ, choáng váng khi thấy chàng trai cũng bị mù như mình. Cô từ chối anh.
Chàng trai rời đi trong nước mắt và nhắn lại rằng :
- Hãy giữ gìn cẩn thận đôi mắt của mình em nhé, vì đó là món quà cuối cùng anh có thể tặng em.
CÂU CHUYỆN 15 :
Một ông lão đang ngồi trên ghế đá, thì một chàng trai trẻ tiến đến và hỏi :
- Thưa Thầy, Thầy có nhớ em không ?
- Không, ta không nhớ.
- Em là học trò của Thầy.
- Ồ, bây giờ em đang làm gì ? Công việc của em ra sao ?
- Dạ, em cũng đã trở thành một giáo viên.
- Thật tuyệt vời ! Giống như ta sao ?
- Vâng, giống như Thầy. Thật ra em trở thành giáo viên là nhờ Thầy. Thầy đã truyền cảm hứng cho em.
- Vậy em quyết định làm giáo viên từ khi nào ?
Chàng trai trẻ bắt đầu kể lại :
- Một ngày nọ khi còn học ở trường. Một người bạn cùng lớp của em mang đến lớp một chiếc đồng hồ rất đẹp, còn mới tinh. Em rất thích chiếc đồng hồ đó và đã quyết định lấy cắp nó. Không lâu sau, bạn ấy nhận ra đồng hồ bị mất và đã mách Thầy.
Thầy đã nói vời chúng em :
- Các em thân mến ! Có một chiếc đồng hồ đã bị lấy cắp trong giờ học. Bạn nào lấy xin hãy trả laị ?
Em đã không trả lại vì em rất muốn có chiếc đồng hồ đó. Thầy bèn đóng cửa lại, và yêu cầu tất cả chúng em đứng lên để Thầy kiểm tra túi của từng người. Nhưng Thầy đã làm một điều đặc biệt : Thầy bảo chúng em nhắm mắt lại.
Khi đến lượt em, Thầy tìm thấy chiếc đồng hồ trong túi của em và lấy nó ra. Nhưng Thầy không nói một lời nào. Sau đó, Thầy tiếp tục kiểm tra những người còn lại mà không tiết lộ điều gì. Cuối cùng, Thầy nói :
- Các em có thể mở mắt ra. Chiếc đồng hồ đã được tìm thấy.
Thầy không bao giờ tiết lộ ai là người lấy chiếc đồng hồ. Thầy cũng không khiển trách hay bình luận gì về em trước mặt lớp. Ngày hôm đó là ngày đáng xấu hổ nhất, nhưng cũng là ngày quan trọng nhất trong cuộc đời em.
Bằng sự im lặng của mình, Thầy đã cứu lấy lòng tự trọng của em. Chính khoảnh khắc đó, em đã hiểu được ý nghĩa thực sự của việc trở thành một người Thầy và giá trị của một nhà giáo.
Chàng trai trẻ sau đó hỏi :
- Thầy có nhớ sự việc đó không, thưa Thầy ?
Ông lão mỉm cười điềm tỉnh trả lời :
- Ta nhớ chiếc đồng hồ bị lấy cắp, ta nhớ đã kiểm tra túi của mọi người... Nhưng ta không nhớ em vì lúc đó, hãy nhìn kỹ, ta cũng đã nhắm mắt khi kiểm tra.
Và ông kết luận :
- Nếu để sửa sai mà cần làm người khác nhục nhã, thì em không thể dạy dỗ họ được.
( Từ trang Incredible world ).